Tin tức

Doanh nghiệp nông sản trước bài toán thuế VAT mới: Vốn, giá và sinh kế nông dân

Doanh nghiệp nông sản trước bài toán thuế VAT mới: Vốn, giá và sinh kế nông dân

 Luật Thuế Giá trị Gia tăng (GTGT) số 48/2024/QH15 chính thức có hiệu lực, đánh dấu một bước điều chỉnh quan trọng trong quá trình hoàn thiện chính sách thuế của Việt Nam, hướng tới mở rộng cơ sở thu và tiệm cận với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, ngay khi được triển khai, luật mới đã làm dấy lên nhiều lo ngại trong cộng đồng doanh nghiệp, đặc biệt là nhóm hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, thủy sản – những ngành nhạy cảm, gắn trực tiếp với sinh kế của hàng chục triệu nông dân.

1. Doanh nghiệp lo ngại “tắc nghẽn” dòng vốn


Một trong những thay đổi đáng chú ý nhất là việc mặt hàng gạo chuyển từ diện không chịu thuế sang chịu thuế suất 5%. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), quy định mới này có thể khiến doanh nghiệp phải gánh thêm áp lực vốn đáng kể, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu mua lúa và hiệu quả sản xuất – kinh doanh.

 Cụ thể, theo quy định, gạo tiêu thụ trong nước sẽ phải kê khai và nộp thuế GTGT 5%. Đối với gạo xuất khẩu, doanh nghiệp vẫn được áp dụng thuế suất 0%, nhưng phải thực hiện cơ chế “nộp trước – hoàn sau”. Nghĩa là doanh nghiệp phải tạm ứng tiền để nộp thuế, rồi chờ cơ quan thuế hoàn lại sau – quy trình vốn tốn thời gian và dễ gây tắc nghẽn dòng vốn.

 Ông Trương Thanh Phong, đại diện VFA cho biết, gạo là mặt hàng có doanh thu hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm. Chỉ cần doanh nghiệp phải tạm nộp 5% giá trị gia tăng cũng đủ khiến dòng tiền bị đọng lại rất lớn. Với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, vốn lưu động vốn đã hạn chế, nay càng khó xoay vòng, làm giảm khả năng thu mua lúa từ nông dân.

 Nếu thời gian hoàn thuế kéo dài, nhiều doanh nghiệp sẽ buộc phải vay ngân hàng để bù dòng tiền, dẫn đến chi phí tài chính tăng. Điều này không chỉ làm giảm hiệu quả kinh doanh, mà còn có thể khiến giá thu mua lúa từ nông dân giảm, gây thiệt hại trực tiếp cho người trồng lúa. Trong khi đó, đặc thù của nông nghiệp là tính mùa vụ cao – nông dân thường bán lúa ngay sau thu hoạch. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thu mua nhanh, họ buộc phải bán rẻ hoặc chấp nhận tồn hàng.

 

2. Nguy cơ “hiệu ứng dây chuyền” đến nông dân
 

 PGS.TS Nguyễn Văn Nam, chuyên gia kinh tế, cho rằng thuế GTGT là sắc thuế gián thu, nên người tiêu dùng cuối cùng là người phải gánh. Tuy nhiên, trong chuỗi giá trị nông sản, những mắt xích yếu nhất lại chính là nông dân và doanh nghiệp nhỏ. Vì vậy, nếu không có cơ chế linh hoạt, việc tăng thuế suất đối với gạo từ 0% lên 5% có thể tạo ra hiệu ứng dây chuyền, gây bất lợi cho nhóm đối tượng cần được hỗ trợ nhất.

 Ông Nam nhấn mạnh rằng, chính sách thuế cần được đặt trong bối cảnh đặc thù của từng ngành hàng. Gạo là mặt hàng chiến lược, vừa đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, vừa mang lại kim ngạch xuất khẩu hàng tỷ USD mỗi năm. Một chính sách hợp lý trên lý thuyết nhưng làm giảm sức cạnh tranh hoặc ảnh hưởng tới nông dân – thì cần được xem xét lại.

 

3. Doanh nghiệp thủy sản, lâm sản cũng gặp khó
Không chỉ gạo, nhiều sản phẩm nông – lâm – thủy sản khác cũng đang phát sinh vướng mắc. Vấn đề lớn nhất hiện nay là phân biệt giữa “sản phẩm sơ chế” và “sản phẩm chế biến” để áp dụng mức thuế phù hợp.

 Ông Lê Văn Quang, Tổng giám đốc Tập đoàn Thủy sản Minh Phú, nêu ví dụ: “Tôm đông lạnh bóc vỏ được xem là sơ chế hay chế biến? Cá phi lê đông lạnh tính thế nào?”. Chỉ cần mỗi cơ quan thuế địa phương hiểu khác nhau là doanh nghiệp sẽ gặp lúng túng, thậm chí đối mặt với nguy cơ bị truy thu sau này.

 Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở doanh nghiệp lâm sản. Các mặt hàng như gỗ xẻ, gỗ dăm, viên nén sinh học hiện vẫn chưa có hướng dẫn chi tiết để phân loại thuế suất. Sự thiếu rõ ràng này tạo ra khoảng trống pháp lý, tiềm ẩn nguy cơ khiếu nại và tranh chấp giữa doanh nghiệp và cơ quan quản lý.

 

4. Giải pháp để chính sách thuế đi sát thực tiễn
Để Luật Thuế GTGT số 48/2024/QH15 đi vào thực tế mà không gây “sốc” cho doanh nghiệp và nông dân, nhiều chuyên gia và hiệp hội đề xuất một số hướng giải pháp. Trước hết, Bộ Tài chính cần sớm ban hành nghị định và thông tư hướng dẫn chi tiết, đặc biệt về tiêu chí phân biệt sản phẩm “sơ chế” và “chế biến”, nhằm đảm bảo cách hiểu thống nhất trên toàn quốc.

 Với mặt hàng gạo, một số ý kiến cho rằng nên giữ nguyên thuế suất 0% cho cả tiêu thụ nội địa và xuất khẩu. Nếu vẫn áp dụng thuế 5% trong nước, thì đối với gạo xuất khẩu, nên cho phép khấu trừ ngay thay vì cơ chế nộp rồi hoàn, để tránh làm “tắc” dòng vốn. Đồng thời, cần cải cách thủ tục hoàn thuế theo hướng minh bạch, nhanh chóng, và ứng dụng công nghệ số để rút ngắn thời gian giải quyết.

 Ngoài ra, với các doanh nghiệp xuất khẩu gạo và thủy sản có doanh thu lớn, nên có cơ chế hoàn thuế định kỳ để giảm tình trạng đọng vốn. Bên cạnh đó, cần đơn giản hóa thủ tục hóa đơn điện tử trong giao dịch với nông dân và hợp tác xã, giúp họ dễ dàng chứng minh nguồn gốc hàng hóa và tránh bị ép giá.

 Các hiệp hội cũng đề nghị duy trì các kênh đối thoại chính sách định kỳ giữa Bộ Tài chính và doanh nghiệp ngành hàng, để kịp thời tháo gỡ vướng mắc khi luật đi vào triển khai.

 

5. Cần chính sách linh hoạt, đảm bảo cân bằng lợi ích
Mục tiêu của Luật Thuế GTGT là mở rộng cơ sở thu, tăng nguồn thu ngân sách và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, trong lĩnh vực nông nghiệp – nơi sinh kế của hàng chục triệu hộ dân – chính sách cần được thiết kế linh hoạt, đảm bảo cân bằng lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người nông dân.

 Nhìn chung cải cách thuế là cần thiết để hướng tới nền tài chính minh bạch và bền vững. Tuy nhiên, việc triển khai phải gắn với thực tiễn ngành hàng, đặc biệt là nông nghiệp – trụ cột của nền kinh tế. Chỉ khi các chính sách được xây dựng trên sự thấu hiểu và đồng hành cùng doanh nghiệp, người nông dân mới thực sự được bảo vệ trong quá trình phát triển kinh tế quốc gia.

 

Đang xem: Doanh nghiệp nông sản trước bài toán thuế VAT mới: Vốn, giá và sinh kế nông dân

Viết bình luận

This site is protected by reCAPTCHA and the Google Privacy Policy and Terms of Service apply.
0 sản phẩm
0₫
Xem chi tiết
0 sản phẩm
0₫
Đóng